Quản lý thuế TMĐT: ‘Khuôn khổ pháp luật phải đồng bộ’

Hiện nay tại Việt Nam có 139 đơn vị chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử. Trong đó, có 41 sàn thương mại điện tử  bán hàng, 98 sàn thương mại điện tử cung cấp dịch vụ và 3 công ty đối tác của các nhà cung cấp nước ngoài được thay nhà cung cấp nước ngoài trả tiền cho các tổ chức, cá nhân có quan hệ giao dịch với các nhà cung cấp nước ngoài; tương ứng với số lượng khách hàng trung bình truy cập các sàn khoảng 3,5 triệu lượt khách/ngày.

Thị trường thương mại điện tử ở Việt Nam đạt khoảng 13,7 tỷ USD năm 2021, tăng khoảng 15% so với năm 2020 và được dự báo có thể đạt 39 tỷ USD vào năm 2025, đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế có thị trường thương mại điện tử đứng thứ ba trong khu vực ASEAN. Tuy nhiên, phát triển hoạt động thương mại điện tử và dịch vụ số xuyên biên giới cũng đặt ra nhiều vấn đề, đặc biệt là liên quan đến quản lý thuế.

đã có cuộc trao đổi với GS.TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính-Ngân sách Quốc hội, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, xung quanh vấn đề này.

– Ông có đề xuất gì về việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật thuế, pháp luật chuyên ngành liên quan để đáp ứng yêu cầu quản lý thuế đối với thương mại điện tử trong bối cảnh nền kinh tế số đang phát triển như vũ bão hiện nay?

GS.TS Hoàng Văn Cường: Như chúng ta đã biết, về mặt khuôn khổ pháp luật thì về cơ bản chúng ta đã có để thực thi các nghiệp vụ, biện pháp để thu thuế trên nền tảng số. Tuy nhiên, cách mạng công nghiệp 4.0 liên tục thay đổi tạo ra nhiều hành vi, nhiều hoạt động hoàn toàn mới và thay đổi không ngừng, có thể ngày hôm nay chúng ta biết rồi đưa vào quy định rồi nhưng có thể ngày mai lại không có nữa. Chính vì vậy, sự cần thiết phải hoàn thiện về khuôn khổ pháp luật.

Đầu tiên, liên quan đến đối tượng phải điều chỉnh ở đây là đối tượng nào phải chịu thuế khi diễn ra các giao dịch ở trên mạng. Tôi cho rằng cần có độ phổ quát cao hơn.

Một thực trạng đang diễn ra hiện nay đó là chúng ta thu thuế thông qua hành vi dòng tiền nhưng có thể họ không dùng tiền của Việt Nam mà thanh toán bằng các đồng tiền số, trong khi chúng ta chưa thừa nhận đồng tiền số này nhưng thực tế vẫn diễn ra các hoạt động phát sinh thu nhập, kinh doanh, lấy các nguồn tiêu dùng của những người trong nước. Vì vậy, những đối tượng này được đưa vào cơ chế điều tiết như thế nào.

Vấn đề đặt ra thứ 2 đó là khi thu thuế trên nền tảng số thì làm thế nào để thu đúng đối tượng, tránh tình trạng trốn thuế, mất bình đẳng giữa những người kinh doanh ở những lĩnh vực truyền thống mà người ta phải nộp thuế, trong khi người kinh doanh thông qua mạng, nền tảng số lại trốn thuế.

Một vấn đề đang đặt ra hiện nay đó là chúng ta đang khuyến khích về khởi nghiệp mà khởi nghiệp cũng phát sinh ở nền tảng số này, nếu không cận trọng chúng ta lại dùng một biện pháp quản lý thu được thuế nhưng lại ảnh hưởng đến môi trường của khởi nghiệp. Cho nên, môi trường pháp lý, khuôn khổ pháp lý phải làm sao giải quyết hài hòa các yếu tố này.

Chưa kể, vấn đề liên quan đến sàn. Trước đây chúng ta có những hoạt động giao dịch trên các chợ bình thường, chúng ta quản lý những nơi diễn ra cụ thể, địa điểm thì hiện nay chủ yếu là các sàn. Vậy thì pháp lý của chúng ta trong chuyện quy định vai trò, trách nhiệm của những người tham gia vào sàn này sẽ như thế nào, người bán, người trung gian dịch vụ như thế nào.

Nói tóm lại, tất cả những gì nêu ở trên đòi hỏi phải có khuôn khổ pháp luật thực sự đồng bộ để tất cả các bên khi tham gia vào trong môi trường giao dịch trên mạng đều chịu một điều tiết chung và khi đó chúng ta mới có thể quản lý một cách hiệu quả.

– Ông có thể chia sẻ những kinh nghiệm cũng như thành công mà quốc tế đã áp dụng để chống thất thu thuế trong hoạt động thương mại điện tử ?

Nhiều nước quản lý rất sớm trong việc thực hiện các giải phát quản lý TMĐT nói chung và quản lý thuế nói riêng.

Biện pháp đầu tiên là củng cố cái nền tảng về mặt pháp lý để đảm bảo đầy đủ các cơ sở pháp lý cho chúng ta thực hiện các biện pháp quản lý. Bởi có rất nhiều sản phẩm mà nó diễn ra trong quá trình giao dịch trên nền tảng mạng thì không thuộc vào các sản phẩm hàng hóa mà đã quy định như các hàng hóa thông thường, cho nên phải quy định về mặt luật pháp để đưa những sản phẩm ấy vào đối tượng thu thuế.

Thứ hai, trong giao dịch hàng hóa thông thường thì đối tượng người nộp thuế, người chịu thuế có hiện diện ở tại nơi quản lý thuế, nhưng trên không gian mạng, đặc biệt là xuyên biên giới thì những người nộp thuế không hiện diện ở đây, không có đại diện ở đây, không có người ở đây vậy thì làm thế nào để quản lý được?

Cho nên việc quản lý ở đây không phải quản lý con người tham gia vào giao dịch mà là quản lý hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế có diễn ra thì dù anh ở đâu, nhưng anh có hoạt động kinh tế trên địa bàn của tôi thì tôi sẽ đưa ra các tiêu trí đánh giá và phân khu pháp luật và anh phải chịu trách nhiệm nộp thuế. Do vậy, cần phải có khuôn khổ pháp lý để thực thi công tác quản lý đảm bảo sự đồng bộ giữa pháp luật trong nước và đặc biệt đảm bảo yếu tố quốc tế.

Thứ ba, công tác thiết lập tổ chức, con người, phải có con người thực thi. Trước đây, quản lý thuế thường sử dụng bộ máy con người như thanh tra quản lý, kê khai trực tiếp thì bây giờ chuyển sang bộ phận ngồi quản lý thông qua hệ thống điện tử.

Bộ máy điện tử này không dừng lại là cơ quan thuế mà có sự hợp tác rất chặt chẽ giữa cơ quan thuế và các cơ quan khác. Bộ máy đó gần như là liên thông với nhau để có thể tạo ra được một cơ quan có trách nhiệm kiểm soát và thực thi các biện pháp quản lý.

Tôi cho rằng có lẽ đấy là các biện pháp mà mà hầu hết các nước đang tiến tới sử dụng trong nội bộ.

Ngoài ra, trong hợp tác quốc tế, các nước bắt tay với nhau để tránh những chuyện chuyển giá, chuyển thuế, tánh tình trạng các quốc gia cho thuế thấp xuống để trốn thuế, gọi là “thiên đường trốn thuế” nên người ta bắt tay với nhau. Công cụ về liên kết quốc tế là yếu tố rất quan trọng để chúng ta quản lý được tất cả các hoạt động dù là chủ thế đó diễn ra trong nước hay là nước ngoài.

– Việc thu thuế đối với TMĐT, nhất là các hoạt động kinh doanh xuyên qua biên giới là không dễ dàng, từ góc độ chuyên gia ông đánh giá thế nào về những nỗ lực của ngành thuế trong thời gian qua?

Chúng ta thấy rằng phát triển của TMĐT ở Việt Nam rất nhanh, kéo theo việc chúng ta quản lý nói chung và trong đó có vấn đề liên quan đến quản lý thu thuế, từ đó đặt ra một thách thức rất lớn.

Đây không phải là thách thức với riêng Việt Nam mà với cả các nước phát triển. Người ta cũng thấy rằng việc quản lý thu thuế với hệ thống TMĐT hiện đang rất lúng túng, đặc biệt là vấn đề kinh doanh xuyên biên giới.

Tuy vậy, nhưng chúng ta nhìn thấy thành công của Việt Nam trong quản lý thuế trên TMĐT đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

Có lẽ tiền đề đầu tiên, tôi cho rằng ngành thuế là ngành tiên phong và là ngành đầu tiên được đánh giá cao nhất là tích cực trong chuyển đổi số, ngành đi đầu trong chuyển đổi số của Việt Nam.

Nhờ nền tảng chuyển đổi số trong quản lý thuế, khi những hoạt động giao dịch không còn là vật lý, cơ học bình thường nữa mà đã chuyển sang môi trường mạng thì công cụ quản lý thuế cũng phải thay đổi để thích nghi. Tôi cho rằng quá trình này được ngành thuế thực hiện khá nhanh, đó là nền tảng rất quan trọng.

Và cũng chính nhờ đó, người ta đánh giá Việt Nam là một trong 4 nước đi đầu ở khu vực Đông Nam Á về việc quản lý thuế xuyên biên giới thông qua việc các nhà mạng phải kê khai thuế trên Cổng thông tin điện tử.

Tôi cho rằng chúng ta khá tiên phong, nắm bắt được những công nghệ quản lý mới để chúng ta áp dụng vào trong bối cảnh cả thế giới đang làm. Ngay trong lĩnh vực quản lý trong nước, chúng ta thấy rằng, hầu hết trước đây có thể giai đoạn ban đầu xuất hiện những sản phẩm dịch vụ chưa biết nó là hàng hóa gì, ví dụ như kinh doanh dịch qua thông qua nền tảng số như là Uber, Grab không phải là hàng hóa, không phải là kinh doanh thế nhưng đến nay chúng ta có được đầy đủ các công cụ pháp lý để chúng ta thực hiện thu thuế các hoạt động dịch vụ này.

Bên cạnh những việc đã triển khai về mặt kỹ thuật, công nghệ thì việc tạo lập khuôn khổ pháp lý cũng được chú trọng. Chúng ta cũng đã chủ động để hình thành nên yếu tố như sửa đổi Luật Quản lý thuế tích hợp ngay những nội cung về quản lý thuế đối với TMĐT, sau đó là quy định của pháp luật về thực thi của Chính phủ.

Quản lý thuế trong lĩnh vực TMĐT không phải chuyện riêng của ngành tài chính mà còn là nhiệm vụ của các bộ ngành liên quan. Ngành công thương làm gì? ngành truyền thông làm gì? Vai trò của ngân hàng thế nào liên quan đến quản lý an ninh mạng nữa?

Như vậy để có khuôn khổ pháp lý về quản lý thuế đối với TMĐT chúng ta đã phối hợp hoạt động khá tốt trong bộ máy quản lý. Chính vì thế chúng ta đã đạt được những thành công đáng ghi nhận trong công tác quản lý thuế TMĐT.

Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi này.