Vay ngang hàng: Hệ lụy từ thiếu hành lang pháp lý

Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech) đã cho ra đời nhiều sản phẩm, dịch vụ mới; trong đó, có ứng dụng cho hoạt động vay ngang hàng (P2P Lending). Tuy nhiên việc thiếu một hành lang pháp lý cho hoạt động này đã gây ra nhiều vấn đề.

P2P Lending là hoạt động được thiết kế và xây dựng trên nền tảng ứng dụng công nghệ số để kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay (nhà đầu tư) mà không thông qua trung gian tài chính như tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Theo đó, toàn bộ hoạt động vay, trả nợ (gốc, lãi) giữa người đi vay và người cho vay được nền tảng giao dịch trực tuyến của công ty vận hành nền tảng (công ty P2P Lending) ghi nhận và lưu trữ bằng các bản ghi điện tử, số hóa trên hệ thống cơ sở dữ liệu của công ty P2P Lending, được đăng tải cho khách hàng đăng ký tham gia nền tảng truy cập.

Ngân hàng Nhà nước cho biết cả nước có khoảng 40 công ty P2P Lending như Tima, Trust Circle, Vay mượn, Lendmo, Wecash, InterLoan… Về lý thuyết, Ngân hàng Nhà nước cho rằng hoạt động P2P Lending có thể góp phần hỗ trợ phổ cập tài chính, mở rộng khả năng và tạo thêm kênh tiếp cận nguồn lực tài chính, cách thức cho vay đối với nền kinh tế nhất là đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội (có khả năng tiếp cận internet); qua đó có thể góp phần đẩy lùi tình trạng “tín dụng đen”.

Tuy nhiên pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định về hoạt động P2P Lending nhưng cũng không có quy định cấm đối với hoạt động này, trừ trường hợp hoạt động này được xác định là hoạt động ngân hàng và hiện áp dụng theo các quy định của Luật Dân sự. Do đó, hoạt động P2P Lending tiềm ẩn nhiều rủi ro (rủi ro cho vay, rủi ro thông tin, rủi ro phòng chống rửa tiền, rủi ro an ninh mạng…) có thể tác động bất lợi, bất ổn đến an sinh xã hội.

Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã kiểm tra, đánh giá thực trạng hoạt động cho vay ngang hàng của một số công ty tại TP. HCM và Hà Nội. Kết quả khảo sát cho thấy một số công ty đăng ký ngành nghề kinh doanh là tư vấn tài chính, môi giới tài chính, kinh doanh dịch vụ cầm đồ và tự nhận là công ty cho vay ngang hàng cung cấp các dịch vụ kết nối nhà đầu tư và người đi vay, vận hành trên nền tảng giao dịch trực tuyến.

Sản phẩm vay vốn trên các nền tảng trực tuyến được các công ty này vận hành khá đa dạng, chủ yếu dưới hình thức vay vốn không có tài sản đảm bảo; thời gian vay ngắn; khách hàng phải trả phí và lãi suất đối với các khoản vay.

“Tuy mới được triển khai từ năm 2016 trở lại đây, nhưng các công ty này có sự tăng trưởng mạnh về số lượng khách hàng, hợp đồng vay vốn kết nối thành công và tổng phí dịch vụ thu được”, Ngân hàng Nhà nước nhận định.

Tuy nhiên, theo Ngân hàng Nhà nước một số công ty P2P Lending lợi dụng việc thiếu thông tin, thiếu hiểu biết của người dân để quảng cáo và đưa ra thông tin không rõ ràng, sai lệch dẫn đến nhà đầu tư hiểu nhầm về việc các hoạt động đầu tư/cho vay qua các nền tảng của công ty P2P Lending đều được bảo hiểm rủi ro.

Bên cạnh đó, hoạt động P2P Lending mới được hình thành và phát triển gần đây, các nền tảng giao dịch trực tuyến của công ty P2P Lending chưa được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, đánh giá nên có thể tồn tại nguy cơ bị đánh cắp thông tin gây thiệt hại cho các bên tham gia.

Một số đối tượng có thể lợi dụng mô hình P2P Lending thực hiện hành vi bất hợp pháp (hoạt động tín dụng đen, cho vay nặng lãi, cho vay cầm đồ biến tướng, hoạt động tài chính đa cấp…), đưa ra quảng cáo sai sự thật, hứa hẹn lợi nhuận cao, lãi suất cạnh tranh để lừa đảo, chiếm dụng vốn của người dân. Điều này tác động tiêu cực đến cuộc sống của người dân, gây bất ổn đến an ninh kinh tế và ổn định xã hội.

Theo một số chuyên gia kinh tế, bản chất mô hình P2P Lending tốt, song do chưa có hành lang pháp lý điều chỉnh nên dễ bị lạm dụng, biến tướng núp bóng P2P Lending đẩy mạnh cho vay tín dụng đen khiến cho các công ty P2P Lending hoạt động đúng nghĩa bị ảnh hưởng. Ngoài ra, nhiều app cho vay online núp bóng P2P Lending không hề kết nối trực tiếp tới các nhà đầu tư với người vay, mà sử dụng  tiền của mình để cho vay với lãi suất cắt cổ, gây ra nhiều hệ lụy.

TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế cho rằng, doanh nghiệp P2P Lending đang hoạt động tại Việt Nam có thể tạm phân loại theo 4 cấp độ, bao gồm chỉ kết nối nhà đầu tư và bên vay; có thẩm định khả năng trả nợ hay hoàn vốn của bên vay; có quy định lãi suất, phí, thời gian vay, phương pháp trả nợ và các quy định khác liên quan đến nhà đầu tư và bên vay; công ty P2P Lending không những kết nối mà được ủy thác vốn và cho vay có giới hạn.

Cũng theo TS Nguyễn Trí Hiếu, việc thiếu hành lang pháp lý đang khiến thị trường P2P Lending không được kiểm soát, hoạt động biến tướng, gây hệ lụy xấu cho xã hội, gây mất uy tín cho hình thức cho vay này.

Ngân hàng Nhà nước cũng thừa nhận, sự phát triển nhanh chóng của hoạt động cho vay ngang hàng đang đặt thách thức lớn trong quản lý, giám sát đối với các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đưa hoạt động của các công ty này vận hành theo đúng qui định của pháp luật, đảm bảo trật tự xã hội, an ninh hệ thống tài chính.

Ông Phạm Tiến Dũng, Vụ trưởng Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước, cho biết trong đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ, Ngân hàng Nhà nước được giao cơ chế thí điểm về P2P Lending và đã có báo cáo trình Thủ tướng. Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021 của Chính phủ cũng giao Ngân hàng Nhà nước xây dựng nghị định thí điểm về kinh doanh dịch vụ tài chính dựa trên nền tảng công nghệ; trong đó có đề cập một hoạt động thử nghiệm về P2P Lending.

Ngân hàng Nhà nước cũng đang phối hợp với các bộ, ngành hoàn thiện báo cáo cơ chế thí điểm hoạt động cho vay ngang hàng để trình Chính phủ, dự kiến đưa lĩnh vực cho vay ngang hàng vào đề án cơ chế quản lý thử nghiệm hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng (Cơ chế Regulatory Sandbox) dự kiến triển khai trong năm 2021.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước khuyến cáo người dân, doanh nghiệp tìm hiểu kỹ, thận trọng khi tham gia các nền tảng cho vay ngang hàng trong bối cảnh chưa có hành lang pháp lý rõ ràng điều chỉnh đối với lĩnh vực này và khuyến nghị người dân tiếp cận vốn qua kênh tín dụng ngân hàng chính thống, tránh bị lừa đảo, rơi vào vòng xoáy cho vay nặng lãi của tín dụng đen.

Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo tổ chức tín dụng lưu ý về các rủi ro trong hoạt động cho vay ngang hàng; thận trọng trong ký kết và thực hiện các thỏa thuận hợp tác với các công ty cho vay ngang hàng, đảm bảo đúng quy định pháp luật, không ảnh hưởng đến hoạt động, uy tín cũng như an toàn của hệ thống ngân hàng.

Trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành để khẩn trương xây dựng, hoàn thiện và ban hành khung pháp lý bao gồm cả các biện pháp chế tài để xử lý các vi phạm trong lĩnh vực này.