Việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được triển khai thế nào ở các quốc gia?

Bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ tài chính ra đời trên thế giới hơn 440 năm và không ngừng phát triển cho đến ngày nay. Tại Việt Nam, bảo hiểm nhân thọ chính thức được triển khai từ năm 1996, đến nay đã có những bước phát triển vượt bậc, đem lại những lợi ích thiết thực và nhân văn cho người dân và đất nước, góp phần to lớn trong vai trò một trong những trụ cột của nền kinh tế nước ta.

Tại Hoa Kỳ, việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ như một tài sản đã được hình thành hơn 100 năm qua và được đánh dấu bởi vài cột mốc quan trọng. Khái niệm “chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ” được chính thức được luật hóa bởi phán quyết của Tòa án tối cao Hoa Kỳ vào năm 1911.

Trong vụ án Grigby v. Rusell, 222 U.SS.. 149 (1911), hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được xác quyết là một tài sản tư nhân, có thể được chuyển nhượng (có điều kiện) theo ý muốn của người chủ hợp đồng. Vào thập niên 1980, dịch AIDS diễn ra tại Hoa Kỳ đã kéo theo việc bùng nổ thị trường chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vào đầu những năm 2000. Nhưng sau đó, cũng giống như những ngành nghề khác, thị trường chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã bị suy giảm bởi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 vì thiếu nguồn vốn đầu tư cũng như việc thẩm định y khoa thiếu chính xác.

Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ còn được biết đến như là “chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cao niên” / “chuyển giao hợp đồng bảo hiểm bệnh nặng giai đoạn cuối”. Đây là việc một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được bán lại cho bên thứ ba nhằm giúp người chủ hợp đồng nhận được ngay khoản tiền mặt khi người được bảo hiểm có thể không còn cần bảo hiểm nhân thọ nhưng lại cần tiền để trang trải các khoản chi phí y khoa trong điều trị giai đoạn cuối.

Gần đây, thị trường chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tại Hoa Kỳ đã xuất hiện các mô hình thẩm định y khoa tiên tiến, thu hút các nhà đầu tư và mở rộng nguồn cung hợp đồng.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng luôn cảnh báo rằng việc lạm dụng phương thức này không phải là hiếm và quy định pháp luật cũng chưa nhất quán, do vậy khi tiến hành cần luôn cảnh giác. Người mua là nhà đầu tư, sẽ là người nhận mọi quyền lợi bảo hiểm từ hợp đồng và khi đó cũng sẽ là người thụ hưởng khi người được bảo hiểm qua đời. Thông thường, việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chỉ dành cho người mà thời gian còn sống sẽ chỉ còn trong khoảng từ 2-10 năm.

Theo quy định pháp luật, người được bảo hiểm phải ở độ tuổi từ 70 trở lên mới được phép bán hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Độ tuổi trẻ hơn chỉ được chấp nhận khi trong tình trạng bệnh nặng giai đoạn cuối, khi đó sẽ được phép áp dụng “chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vì bệnh nặng giai đoạn cuối” (viatical settlement).

Để được phép bán hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, bên cạnh độ tuổi của người được bảo hiểm, đó phải là một hợp đồng bảo hiểm hiểm nhân thọ trọn đời (whole life) hoặc hợp đồng bảo hiểm nhân thọ liên kết chung (universal life) hoặc hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn có thể chuyển đổi (convertible term insurance life) với số tiền bảo hiểm chi trả khi tử vong từ 100.000 USD (khoảng 2,3 tỷ đồng).

Mục đích của việc bán một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là để giúp người chủ hợp đồng có được số tiền nhiều hơn giá trị hoàn lại hủy hợp đồng với công ty bảo hiểm, nhưng vẫn phải là thấp hơn số tiền bảo hiểm khi tử vong (thông thường là từ khoảng 10 – 25%). Số tiền nhận được từ việc bán hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ phải trừ đi các khoản hoa hồng và phí giao dịch cũng như thuế theo luật định. Số tiền này là bao nhiều cũng còn được tính toán dựa trên độ tuổi, tình trạng sức khỏe, và chi tiết thông tin trong hợp đồng bảo hiểm.

Cục quản lý ngành Tài chính (FINRA) cũng đã từng cảnh báo: “Khi bạn bán hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của mình, thì người mua sẽ là người có được lợi ích tài chính khi bạn qua đời. Loại giao dịch này có thể nhắm tới người cao niên có tình trạng sức khỏe kém. Vì thế, nó có thể có thiên hướng bị dụ dỗ và làm dụng bán khi không cần thiết. Hãy luôn cảnh giác”.

Tại Hoa Kỳ, việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một giao dịch được quản lý bởi pháp luật của bang, hiện có 42 bang và Puerto Rico đã có ban hành luật. Còn 8 bang và quận của Columbia vẫn chưa ban hành luật liên quan.

Đối với việc mua và bán một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, đa số các bang đều quy định thời gian tối thiểu là 2 năm. Khoảng 10 bang quy định thời gian này là 5 năm. Hầu hết các bang đều cho phép giảm thời gian chờ trong một số tình huống nhất định như ly dị, nghỉ hưu hoặc bệnh nặng giai đoạn cuối.

Các công ty kinh doanh chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường gộp các hợp đồng vào quỹ và bán phần lãi trong quỹ cho các nhà đầu tư. Việc làm này sẽ giảm thiểu rủi ro đối với những người nắm giữ phần đầu tư, khi người được bảo hiểm sống lâu hơn các kỳ vọng.

Tuy nhiên rủi ro tiềm ẩn đối với các nhà đầu tư là các công ty bảo hiểm có thể từ chối chi trả quyền lợi do các hợp đồng bị cáo buộc có vấn đề. Phí đầu tư có thể cao và bao gồm hoa hồng lớn cho các nhà môi giới.

Trên thực thế, đã có một số trường hợp, các cơ quan quản lý đã khởi kiện các công ty kinh doanh chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, cáo buộc họ lừa dối các nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, không giống như số tiền thu được từ bảo hiểm nhân thọ mà người thụ hưởng được nhận, số tiền nhận được khi bán hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ phải chịu thuế thu nhập. Và nó có thể ảnh hưởng đến việc không đạt điều kiện để nhận hỗ trợ công cộng, chẳng hạn như chương trình bảo hiểm y tế Medicaid. Những khoản tiền này cũng có thể hạn chế khả năng tham gia một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khác, vì số tiền bảo hiểm mới sẽ vẫn được cộng dồn vào số tiền bảo hiểm của hợp đồng đã bán.

Bên cạnh Hoa Kỳ, một số nước khác cũng đang từng bước triển khai hoạt động chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này một cách thận trọng.

Cơ quan quản lý tại Việt Nam cũng nên xem xét ban hành quy định công nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một loại tài sản và đương nhiên, cũng cần có nhiều quy định chặt chẽ của pháp luật để tránh việc lạm dụng sai trái gây tổn hại đến các bên tham gia. Việc này sẽ đem lại cơ hội có được quyền lợi tốt cho người lớn tuổi và người bệnh nặng giai đoạn cuối khi mong muốn có khoản tiền lớn để trang trải nợ nần hoặc thực hiện ước mơ cuối đời trong những năm tháng ít ỏi còn lại.